Giải quyết ly hôn giữa nguyên đơn trong nước với bị đơn ở nước ngoài không rõ địa chỉ
Kể từ ngày 1/7/2016, BLTTDS năm 2015 có hiệu lực đã cơ bản khắc phục được khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại và HNGĐ... Tuy nhiên trường hợp ly hôn giữa nguyên đơn trong nước và bị đơn đang sống ở nước ngoài nhưng cố tình dấu địa chỉ và trốn tránh thì luật còn quy định chung chung và chưa có hướng dẫn cụ thể.
Nguyên đơn là người trong nước có đơn gửi đến TAND cấp tỉnh yêu cầu được ly hôn với bị đơn đang sinh sống tại nước ngoài vì đã lâu không còn liên lạc, không quan tâm và không còn tình cảm với nhau. Trong đơn xin ly hôn, nguyên đơn đã cung cấp địa chỉ của bị đơn tại nước ngoài. Tòa án đã yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tại nước ngoài theo đường ngoại giao gửi văn bản đến địa chỉ của đương sự đang cư trú nhưng bị đơn không hợp tác. Xác minh tại địa chỉ người thân trong nước của bị đơn thì họ cho rằng bị đơn vẫn sống và làm việc ở nước ngoài và vẫn liên lạc thường xuyên với người thân thích trong nước. Tòa án cũng đã nhờ người thân của bị đơn liên hệ và yêu cầu về nước để giải quyết việc nguyên đơn yêu cầu ly hôn họ nhưng bị đơn không về nước cũng không có thông tin phản hồi về việc nguyên đơn có yêu cầu ly hôn.
Tình huống này gây khó khăn cho Tòa án khi thụ lý giải quyết vụ án.
Trả lại đơn khởi kiện, đình chỉ vụ án hay tuyên bố đương sự mất tích hoặc chết?
Đối chiếu với quy định của BLTTDS hiện hành thì có hai trường hợp tương tự quy định về việc bị đơn không hợp tác như sau:
Tại khoản 2 Điều 473 BLTTDS 2015 quy định: “Trường hợp không xác định được địa chỉ của đương sự ở nước ngoài thì người khởi kiện, người yêu cầu có thể yêu cầu Tòa án Việt Nam đề nghị cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài xác định địa chỉ của đương sự hoặc có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú hoặc yêu cầu Tòa án Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài tuyên bố đương sự mất tích hoặc đã chết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật nước ngoài hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài trả lời cho Tòa án Việt Nam không xác định được địa chỉ của đương sự ở nước ngoài hoặc sau 06 tháng mà không có trả lời thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu”.
Đối chiếu vào trường hợp này, Tòa án không thể áp dụng khoản 2 Điều 473 hay điểm b khoản 6 Điều 477 BLTTDS để tuyên bố tuyên bố mất tích vì theo người thân thích của bị đơn cung cấp là họ vẫn liên lạc được với bị đơn, đã thông báo với bị đơn theo yêu cầu của Tòa.
Đối với quy định tại điểm b khoản 6 Điều 477 BLTTDS: “Nếu nguyên đơn, người thân thích trong nước của đương sự không cung cấp được hoặc người thân thích trong nước của đương sự từ chối cung cấp địa chỉ đúng hoặc địa chỉ mới của đương sự ở nước ngoài hoặc đương sự ở nước ngoài không có người thân thích ở Việt Nam thì Tòa án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Đồng thời, Tòa án giải thích cho người khởi kiện biết quyền yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm đương sự vắng mặt tại nơi cư trú hoặc yêu cầu Tòa án tuyên bố đương sự mất tích hoặc đã chết”.
Tuy nhiên, nếu Tòa đình chỉ việc giải quyết vụ án thì nguyên đơn là công dân trong nước bị bỏ lửng không ly hôn được và như vậy là không đảm bảo quyền lợi của đương sự, vi phạm luật hôn nhân gia đình về quyền được kết hôn và ly hôn của đương sự.
Do đó, Tòa án không thể đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Những vướng mắc khi xét xử vắng mặt bị đơn
Xét xử vắng mặt bị đơn được quy định tại điểm b,c khoản 5 và điểm c khoản 6 Điều 477 BLTTDS 2015 như sau:
Khoản 5 Điều 477 BLTTDS: “Tòa án xét xử vắng mặt đương sự ở nước ngoài trong các trường hợp sau đây:
b) Tòa án đã thực hiện các biện pháp quy định tại khoản 3 Điều 474 của Bộ luật này;
c) Tòa án không nhận được thông báo của cơ quan có thẩm quyền theo quy định tại khoản 4 Điều này về kết quả thực hiện việc tống đạt cho đương sự ở nước ngoài”.
Tại điểm c khoản 6 Điều 477 BLTTDS quy định: “Trường hợp nguyên đơn là công dân Việt Nam yêu cầu ly hôn với người nước ngoài đang cư trú ở nước ngoài mà không thể thực hiện việc cung cấp đúng họ, tên, địa chỉ hoặc địa chỉ mới của người nước ngoài theo yêu cầu của Tòa án mặc dù nguyên đơn, thân nhân của họ hoặc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam hoặc của nước ngoài đã tiến hành xác minh tin tức, địa chỉ của người nước ngoài đó nhưng không có kết quả thì nguyên đơn yêu cầu Tòa án thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có), Cổng thông tin điện tử của cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; trường hợp cần thiết, theo yêu cầu của nguyên đơn, Tòa án có thể thông báo qua kênh dành cho người nước ngoài của Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương ba lần trong 03 ngày liên tiếp.
Trong trường hợp này, Tòa án không phải tống đạt lại văn bản tố tụng cho đương sự ở nước ngoài. Hết thời hạn 01 tháng, kể từ ngày đăng thông báo, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đương sự”.
Xét tình hình thực tiễn, đương sự trong nước bị bỏ lửng nhiều năm, hai bên không còn quan tâm đến nhau, mục đích của hôn nhân không đạt được… bị đơn cố tình giấu địa chỉ, theo Luật HNGĐ và căn cứ điểm b,c khoản 5 hoặc điểm b khoản 6 Điều 477 BLTTDS 2015 thì Tòa án có thể xử vắng mặt đương sự. Tuy nhiên căn cứ để xử vắng mặt và căn cứ để đình chỉ vụ án là tương đối giống nhau. Do đó, trên thực tiễn đây là vấn đề gây lúng túng, vướng mắc đối với các Thẩm phán trong quá trình giải quyết.
Trước đây việc bị đơn giấu địa chỉ được giải quyết theo hướng dẫn tại điểm b mục 2.1 phần II Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của HĐTP TANDTC quy định về Ly hôn có yếu tố nước ngoài như sau:
– Nếu bị đơn ở nước ngoài không có địa chỉ, không có tin tức gì về họ (kể cả thân nhân của họ cũng không có địa chỉ, tin tức gì về họ), thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và giải thích cho nguyên đơn biết họ có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án cấp huyện nơi họ thường trú tuyên bố bị đơn mất tích hoặc đã chết theo quy định của pháp luật về tuyên bố mất tích, tuyên bố chết.
– Nếu thông qua thân nhân của họ mà biết rằng họ vẫn có liên hệ với thân nhân ở trong nước, nhưng thân nhân của họ không cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án, cũng như không thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết để gửi lời khai về cho Toà án, thì coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Nếu Toà án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết, thì Toà án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung. Sau khi xét xử Toà án cần gửi ngay cho thân nhân của bị đơn bản sao bản án hoặc quyết định để những người này chuyển cho bị đơn, đồng thời tiến hành niêm yết công khai bản sao bản án, quyết định tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi bị đơn cư trú cuối cùng và nơi thân nhân của bị đơn cư trú để đương sự có thể sử dụng quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật tố tụng.
Theo Luật HNGĐ và theo hướng dẫn này thì Tòa đủ căn cứ để xử vắng mặt bị đơn.Tuy nhiên Nghị quyết này đến nay đã hết hiệu lực pháp luật mà chưa có hướng dẫn mới thay thế.
Để có sự thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật, giải quyết vụ án HNGĐ, đề nghị HĐTP TANDTC có hướng dẫn cụ thể về trường hợp nguyên đơn trong nước xin ly hôn với bị đơn đang sinh sống ở nước ngoài không có tin tức hoặc giấu địa chỉ. Qua tổng kết thực tiễn, chúng tôi đề xuất nên giữ nguyên hướng dẫn tại điểm b mục 2.1 phần II Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của HĐTP TANDTC.